Post Reply 
NS Nguyễn Văn Đông với Hà Thanh,Thanh Tuyền, Giao Linh
Author Message
maritza Offline
Moderator
*****

Posts: 41,961
Joined: Aug 2010
Post: #1
NS Nguyễn Văn Đông với Hà Thanh,Thanh Tuyền, Giao Linh
Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông và học trò (Thanh Tuyền-Giao Linh)

Năm 2007, đôi lúc buồn, Hoàng Lan Chi gọi về Việt Nam nghe nhạc sĩ
Nguyễn Văn Đông kể chuyện. Hôm nay xin gửi đến quý độc giả những chuyện
vui về ca sĩ Hà Thanh, Thanh Tuyền và Giao Linh cùng vài kỷ niệm xưa
thuở Nguyễn Văn Đông làm Giám Đốc hãng Continental (nhắc lại, thu âm từ
2007)

Hình ảnh do Nguyễn Văn Đông cung cấp cho Hoàng Lan Chi. Mọi trích đăng, xin ghi rõ nguồn.


[IMG]<u>The contents of this section is only viewable by members - Please login or register to view</u>[/IMG] Login / Register


Nguyễn Văn Đông 1975

[IMG]<u>The contents of this section is only viewable by members - Please login or register to view</u>[/IMG] Login / Register



Giao Linh- Nguyễn Văn Đông 2007



[IMG]<u>The contents of this section is only viewable by members - Please login or register to view</u>[/IMG] Login / Register


Nguyễn Văn Đông -Thanh Tuyền 2008


[IMG]<u>The contents of this section is only viewable by members - Please login or register to view</u>[/IMG] Login / Register



Nguyễn Văn Đông 2010


[IMG]<u>The contents of this section is only viewable by members - Please login or register to view</u>[/IMG] Login / Register


Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông kể về “Phiên gác Đêm Xuân”:


Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem
là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp
bực Trung úy, mới 24 tuổi đời, còn bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn còn
xanh nhưng tâm tình đã nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng
Tháp Mười, vùng đất địa linh nhân kiệt, đã gợi hứng cho tôi sáng tác
những bản hùng ca như Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong
chiến dịch Thoại Ngọc Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm
Xuân, Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng
đất thiêng này. Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân,
với một mối tình nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước
nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời.

Ngày đó Đồng Tháp Mười còn là đồng không mông quạnh, lau sậy ngút
ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những gò đất cao giữa vùng đồng
lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nhìn về Đồng
Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân
đánh giặc về Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua
những trận đánh lẫy lừng ở Gãy Cờ Đen, Gò Tháp mà chiến tích được tạc
vào bia đá ở Tháp Mười Tầng còn lưu lại đến ngày nay. Mùa xuân năm đó,
đơn vị tôi đóng trên Gò Bắc Chiêng, có tên là Mộc Hoá, nằm sát biên giới
Việt Nam-Campuchia, sau này là tỉnh lỵ Kiến Tường. Đơn vị của tôi đã có
những cuộc giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên những địa
danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái, Tân Thành. Dù
vậy, mùa xuân vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa sen Tháp Mười
vẫn đua nở trong đầm dù bị quần thảo bởi những trận đánh ác liệt. Cứ mỗi
độ xuân về, sông Vàm Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ biển hồ Tông Lê
Sáp, vượt vũ môn theo đám lục bình trôi về vùng Tam Giác Sắt, như nhắc
nhở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những người
được về quê ăn Tết. Vì còn độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào Sổ
Nhật Ký Hành Quân và ở lại đơn vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ
có đánh nhau ngày đầu năm nhưng quân lệnh phãi được tuân hành nghiêm
chỉnh. Trước ba ngày Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền tiêu, tăng cường
cho cứ điểm, mang theo chiếc ba-lô với chút hành trang lương khô, cùng
tấm ảnh của người em gái hậu phương, cũng là cơ duyên sau đó để tôi viết
nên bài tình ca Sắc Hoa Màu Nhớ.

Tiền đồn cuối năm, đêm 30 Tết, trời tối đen như mực, phút giao
thừa lạnh lẽo hắt hiu, không bánh chưng xanh, không hương khói gia
đình. Tôi ngồi trên tháp canh quan sát qua đêm tối, chỉ thấy những bóng
tháp canh mờ nhạt bao quanh khu yếu điểm như những mái nhà tranh, chập
chờn dưới đóm sáng hỏa châu mà mơ màng về mái ấm gia đình đoàn tụ lúc
xuân sang. Thay cho lời chúc Tết là tiếng kẻng đánh cầm canh và tiếng hô
mật khẩu lên phiên gác. Vào đúng thời điểm giao thừa, ngọn đèn bão dưới
chiến hào thắp sáng lên như đón chào năm mới thì cũng là lúc những
tràng súng liên thanh nổ rền từ chốt tiền tiêu. Khi ấy vào buổi tinh mơ
của trời đất giao hòa, vạn vật như hòa quyện vào trong tôi, có hồn
thiêng của sông núi, có khí phách của tiền nhân. Tôi nghe tâm hồn nghệ
sĩ của mình rộn lên những xúc cảm lạ thường, làm nảy lên những cung bậc
đầu tiên của bài Phiên Gác Đêm Xuân:

“Đón giao thừa một phiên gác đêm
chào Xuân đến súng xa vang rền.
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
ngở rằng pháo tung bay
ngờ đâu hoa lá rơi…”


Rồi mơ ước rất đời thường:

“Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh
mơ rằng đây máinhà tranh
mà ước chiếc bánh ngày xuân
cùng hương khói vương niềm thương...”


Bài Phiên Gác Đêm Xuân được ra đời trong hoàn cảnh như thế, cách
đây nửa thế kỷ, đánh dấu một chuỗi sáng tác của tôi về đời lính như
Chiều Mưa Biên Giới, Mấy Dặm Sơn Khê, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc Tình Ca Hàng
Hàng Lớp Lớp, Xin Đừng Trách Anh, Lá Thư Người Lính Chiến, Anh Trước
Tôi Sau, Lời Giã Biệt… vân vân. Sau ngày 30 tháng Tư năm 75, các bản
nhạc này cùng chung số phận tan tác như cuộc đời chìm nổi của tôi.

Còn với hãng dĩa Continental:

Vào năm 1960, tôi và người bạn cao niên tên là Huỳnh Văn Tứ, một nhà
doanh nghiệp có tiếng ở Sàigòn, cùng đứng ra sáng lập hãng dĩa
Continental và Sơn Ca. Ông Huỳnh Văn Tứ phụ trách Giám Đốc Sản Xuất,
nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông phụ trách Giám Đốc Nghệ Thuật. Chủ trương của
chúng tôi là nhắm vào hai bộ môn Tân Nhạc và Sân Khấu Cải Lương Ca Cổ.
Về lãnh vực Tân Nhạc, tôi cho ra đời hàng trăm chương trình mang dấu ấn
của hãng Continental, Sơn Ca, Premier. Chính hãng Continental, Sơn Ca đã
đi tiên phong trong việc thực hiện Album riêng cho từng cá nhân ca sĩ,
như Khánh Ly với Sơn Ca số 7, Lệ Thu với Sơn Ca số 9, Thái Thanh và Ban
Hợp Ca Thăng Long với Sơn Ca số 10 và nhiều Album cho Phương Dung,
Thanh Tuyền, Giao Linh, làm vinh danh những tài năng này ở thập niên 60
và 70. Riêng về bộ môn Sân Khấu Cải Lương Ca Cổ, tôi đã thực hiện hàng
trăm chương trình Tân Cổ Giao Duyên và trên 50 vở tuồng cải lương kinh
điển nổi tiếng như Nửa Đời Hương Phấn, Đoạn Tuyệt, Tiếng Hạc Trong
Trăng, Sân Khấu Về Khuya, Mưa Rừng… vân vân. Chính trong thời gian này,
tôi tạo thêm hai bút danh nữa là nhạc sĩ Phượng Linh và soạn giả Đông
Phương Tử, nhằm phục vụ cho bộ môn Cải Lương Sân Khấu và Tân Cổ Giao
Duyên. Bút danh Phượng Linh để sáng tác phần nhạc đệm và bài ca tân nhạc
lồng trong các vở tuồng cải lương, phối hợp với giàn cổ nhạc gồm những
danh cầm như Văn Vỹ, Năm Cơ, Hai Thơm. Còn bút danh Đông Phương Tử là
soạn các bài tân cổ giao duyên và đạo diễn thâu thanh các vở tuồng cải
lương. Tiếc thay, những công trình tâm huyết đó đã bị gạt ra bên lề xã
hội sau biến cố lịch sử 30 tháng Tư năm 1975.

Nói về những nhạc phẩm sau này, nhạc sĩ NVĐ tâm sự

Sau tháng 4/1975, tôi đi học tập “cải tạo” 10 năm. Khi trở về nhà, tôi
mang theo nhiều chứng bệnh trầm trọng, tinh thần và thể xác bị suy sụp.
Suốt 30 năm qua, tôi không tham gia bất cứ hoạt động nào ở trong nước
cũng như ngoài nước. Vào năm 2003, nhà nước Việt Nam có cho phép lưu
hành 18 bài hát của tôi, gồm: Hải Ngoại Thương Ca, Nhớ Một Chiều Xuân,
Về Mái Nhà Xưa, Khi Đã Yêu, Đom Đóm, Thầm Kín, Vô Thường, Niềm Đau Dĩ
Vãng, Tình Cố Hương, Cay Đắng Tình Đời, Tình Đầu Xót Xa, Khúc Xuân Ca,
Kỷ Niệm Vẫn Xanh, Truông Mây, Bài Ca Hạnh Phúc, Bông Hồng Cài Áo, Trái
Tim Việt Nam, Núi và Gió.

Rất tiếc một số bài hát tâm đắc không được nhà nước cho phép. Tôi
hy vọng rồi đây theo thời gian mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Đặc biệt trong
lãnh vực văn hoá, văn nghệ, tôi nghiệm rằng những gì có giá trị nghệ
thuật, dù bị vùi dập vì sự ganh tị hay hiểu lầm, sẽ có ngày được mang
trả lại vị trí đích thực của nó. Tôi chỉ tiếc đời người ngắn ngủi mà tôi
đã phí phạm quãng thời gian dài 30 năm. Thật lấy làm tiếc!


Kể về hai cô ca sĩ học trò Giao Linh và Thanh Tuyền <u>The contents of this section is only viewable by members - Please login or register to view</u>

Truờng hợp Thanh Tuyền cũng có nhiều kỷ niệm đặc biệt. Đó là vào
năm 1964, tôi đi nghỉ dưởng sức ở Đà Lạt. Bạn bè thân hữu ở Đài Phát
Thanh đến thăm hỏi, có giới thiệu giọng hát cô bé Như Mai nhiều triển
vọng. Cô là nữ sinh Trường Bùi Thị Xuân, hàng tuần có tham gia hát ở Đài
Phát Thanh Đà Lạt. Rồi nhân dịp nghỉ hè, Trường Bùi Thị Xuân tổ chức
phát thưởng bế giảng năm học, mời tôi đến dự lễ. Đến phần văn nghệ,
người dẫn chương trình giới thiệu “nữ sinh Như Mai hát tặng cho khách
quý đến từ Sài Gòn”. Giọng cô nữ sinh Bùi Thị Xuân lảnh lót cất lên,
khỏe khoắn đầy nội lực thanh xuân, âm vang làm rộn rã cả sân trường. Tôi
nghe cháy bỏng một ước mơ, một hy vọng mà cô bé như muốn ngỏ cùng ai.
Khi chấm dứt bài hát, Như Mai ngước nhìn tôi. Tôi hiểu ý nên mời cô bé
lên gặp tôi trên khán đài và hỏi: “Cháu có muốn trở thành ca sĩ không?”.
Như Mai xúc động gật đầu. Sau đó tôi gập thân sinh của Như Mai và bàn
chuyện đưa cô bé về Sài Gòn để đào tạo thành ca sĩ. Khi ấy, tôi còn độc
thân, ngày ngày ăn cơm chợ, tối tối ngủ ở đơn vị, thật không tiện chút
nào để đở đần một cô gái trẻ xa nhà như vậy. Thế nên, sau khi bàn bạc
với Ban Giám Đốc Hãng Dĩa Continental, tôi nhờ nhạc sĩ Mạnh Phát lên Đà
Lạt rước Như Mai về Sài Gòn, tá túc trong gia đình của ông, cũng là gia
đình của đôi nghệ sĩ tài danh Minh Diệu-Mạnh Phát thời bấy giờ. Mọi phí
tổn ăn ở do Hãng Đĩa Continental đài thọ. Tôi lập chương trình đào tạo
và đặt tên mới cho Như Mai là Thanh Tuyền, ý muốn nói là giòng suối xanh
của Cao Nguyên Đà Lạt. Chỉ trong vòng 8 tháng có mặt ở thủ đô Sài Gòn,
Thanh Tuyền đã có đĩa và băng nhạc giới thiệu với người yêu nhạc. Như
con chim lạ từ xứ sương mù, một bông hoa rừng còn đẫm ướt hơi sương,
Thanh Tuyền nhanh chóng chiếm được sự mến mộ của người yêu nhạc thủ đô,
sánh vai cùng đàn anh đàn chị trên Đài Phát Thanh, trên sân khấu Đại
Nhạc Hội, phòng trà ca nhạc, được báo giới Sài Gòn không tiếc lời ca
ngợi. Năm ấy, Thanh Tuyền vừa đúng 17 tuổi.

Riêng đối với tôi vẫn còn xanh mãi một kỷ niệm về ngày khởi đầu đi
hát của Thanh Tuyền tại Sài Gòn. Theo chương trình, Thanh Tuyền hát ra
mắt lần đầu tiên ở phòng trà Bồng Lai và vũ trường Quốc Tế đường Lê Lợi
Sài Gòn. Tôi đích thân đi mua son phấn để cho Thanh Tuyền trang điểm
khi đi hát. Tôi thật bất ngờ khi biết Thanh Tuyền chưa từng sử dụng hộp
phấn cây son trước đó. Khi đến giờ trình diễn, tôi đưa Thanh Tuyền đến
Viện Thẩm Mỹ, Salon Make Up, nhưng các cửa tiệm đều đóng cửa vì trời đã
khuya. Quá lo lắng, tôi kéo Thanh Tuyền chạy men theo đường Lê Lợi mong
tìm người quen giúp đở. Nhưng không gập được ai mà thời gian lại gấp rút
nên thầy và trò đành ngồi bệt ngay trên vỉa hè Lê Lợi. Nhờ ánh sáng đèn
đường, tôi đánh phấn tô son cho Thanh Tuyền mà trước đó, tôi cũng chưa
từng biết gì về cây son hộp phấn Chanel. Rồi Thanh Tuyền chạy bay lên
lầu phòng trà Bồng Lai để kịp giờ trình diễn, còn tôi nện gót trên lề
đường Lê Lợi, lòng ngập tràn cảm xúc khi tiếng hát Thanh Tuyền cất lên,
đánh dấu ngày khởi nghiệp của ca sĩ Thanh Tuyền giữa thủ đô Sài Gòn hoa
lệ. Đến bây giờ, sau 40 năm ngồi nhớ lại, tôi dám đoan chắc rằng, đây là
người thiếu nữ duy nhứt trong đời mà tôi đã kẻ lông mày, “tô son trét
phấn” rồi tung con chim Sơn Ca vào bầu trời bao la, bởi vì cô là... của
muôn người.

Về Hà Thanh, con chim hoạ mi đất thần kinh, người được xem như gắn liền với một số nhạc phẩm của Nguyễn Văn Đông, ông tâm sự :

Lần đầu tiên, tôi được gập cô Hà Thanh là vào năm 1963 tại Đài Phát
Thanh Sài Gòn ở số 3 đường Phan Đình Phùng ngày xưa, bây giờ là đường
Nguyễn Đình Chiễu. Khi ấy, tôi là Trưởng Ban TIẾNG THỜI GIAN của Đài Sài
Gòn với các ca sĩ như Lệ Thanh, Khánh Ngọc, Trần Văn Trạch, Minh Diệu,
Mạnh Phát, Thu Hồ, Anh Ngọc v.v. Ngày đó cô Hà Thanh từ Huế vào Sài Gòn
thăm người chị gái lập gia đình với một vị đại tá đang làm việc ở Sài
Gòn. Chính nhạc sĩ Mạnh Phát cho tôi biết về cô Hà Thanh nên tôi nhờ
Mạnh Phát liên lạc mời cô Hà Thanh đến hát với Ban Tiếng Thời Gian. Đây
là lần đầu tiên tôi được tận tai nghe tiếng hát Hà Thanh, hát nhạc sống
và hát thật ngoài đời với ban nhạc của tôi, không nghe qua làn sóng phát
thanh hay qua băng đĩa nhạc. Điều này giúp cho tôi có cơ sở nhận định
chính xác về giọng hát Hà Thanh. Tôi hiễu ngay đây là giọng ca thiên
phú, kỹ thuật tốt, làn hơi diễm cãm tuyệt đẹp, là một vì sao trong những
vì sao hiếm hoi ở đĩnh cao nghệ thuật nhưng chưa có cơ hội phát tiết
hết hào quang của mình. Ngay sau đó, tôi có mời Hà Thanh thâu thanh cho
hãng đĩa Continental. Nếu tôi nhớ không lầm thì bản nhạc đầu tiên tôi
trao cho Hà Thanh là bài VỀ MÁI NHÀ XƯA do tôi sáng tác. Lần đó, cô Hà
Thanh hát thật tốt, toàn ban nhạc và Ban Giám Đốc Hãng Continental rất
hài lòng, khen ngợi. Sau ngày đó, cô Hà Thanh từ giã trở về lại Huế, trở
về lại với cố đô trầm mặc, tĩnh lặng, không sôi nổi như Thủ Đô Sài Gòn,
là cái nôi của âm nhạc thời bấy giờ.

Sau khi Hà Thanh trở về Huế, tôi có nhiều suy tư về giọng hát đặc biệt
này. Tôi ví von, cho đây là vì sao còn bị che khuất, chưa toả hết ánh
hào quang, vì chưa có hoàn cảnh thuận lợi để đăng quang, nếu phó mặc cho
thời gian, cho định mệnh, có thễ một ngày kia sẽ hối tiếc. Vì vậy tôi
đem việc này ra bàn với Ban Giám Đốc Hãng đĩa Continental để mời cô Hà
Thanh vào Sài Gòn cộng tác. Chính tôi viết thư mời cô Hà Thanh vào Sài
Gòn với những lý lẽ rất thuyết phục, rất văn nghệ, rất chân tình. Và cô
Hà Thanh đã vào Sài Gòn sau khi đã tranh đấu gay go với gia đình bố mẹ,
vốn giữ nề nếp cỗ xưa của con người xứ Huế. Ngày đó Hà Thanh vào Sài
Gòn, hoà nhập vào đời sống người Sài Gòn, vào nhịp đập âm nhạc Sàigòn,
vốn đứng đầu văn nghệ cả nước. Hà Thanh đi thâu thanh cho Đài Sài Gòn,
Đài Quân Đội và nhận được lời mời tới tấp của các hãng đĩa băng nhạc như
Sóng nhạc, Việt Nam, Tân Thanh, Tứ Hải và hầu hết các Trung Tâm ở Thủ
Đô Sài Gòn, chứ không phải chỉ riêng cho Hãng Dĩa Continental và Sơn Ca
của tôi. Ngày đó, tiếng hót của con chim Sơn Ca đất Thần Kinh đã được
vang thật xa, đi vào trái tim của hàng triệu người yêu mến tiếng hát Hà
Thanh.


Cô Hà Thanh hát hầu hết các tác phẩm của tôi. Bài nào tôi cũng thích,
cũng vừa ý, có lẽ vì vậy mà tôi không nghĩ đến chuyện viết bài đặc biệt
cho riêng cô. Tôi nhớ lại một chuỗi những sáng tác trong thời binh lửa
chiến tranh như Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ, Khúc Tình Ca Hàng
Hàng Lớp Lớp, Mấy Dặm Sơn Khê, Lá Thư Người Lính Chiến,Phiên Gác Đêm
Xuân, Anh Trước Tôi Sau, Lời Giã Biệt vân vân, đều rất hợp với tiếng hát
Hà Thanh và cô hát rất thành công. Tôi cho rằng Hà Thanh không chỉ hát
mà còn sáng tạo trong khi hát. Hà Thanh đã tạo thêm những nốt luyến láy
rất truyền cảm, rất mỹ thuật làm cho bài hát của tôi thêm thăng hoa,
trong giai điệu cũng như trong lời ca. Tôi cho rằng khi hát cô Hà Thanh
đã sống và cùng đồng điệu sẻ chia với tác gỉa khi trình bày một bản nhạc
có tầm vóc nghệ thuật.


Tôi cho rằng Hà Thanh có giọng hát thiên phú, cô hát rất thoải mái dễ
dàng, không cầu kỳ, không cường điệu, không gò bó nhưng nó cuốn hút ta
đi trong cái bềnh bồng không gò ép đó. Tôi cám ơn tiếng hát của Hà Thanh
đã mang lại cho các bài hát của tôi thêm màu sắc, thêm thi vị, bay
bổng. Trước khi đến với Hà Thanh, tôi cũng rất ngưởng mộ tiếng hát của
cô Thái Thanh, Lệ Thanh, Khánh Ngọc và nhiều người khác đã gieo khắp
phương trời tiếng lòng của tôi, cũng như về sau này có thêm các cô học
trò như Thanh Tuyền, Giao Linh đã giúp cho ông Thầy truyền tải đến trái
tim người yêu nhạc. Nhưng đặc biệt, tiếng hát Hà Thanh đã để lại trong
tôi nhiều kỹ niệm tốt đẹp, bền bỉ tuy thời gian ngắn ngủi kể từ khi cô
bỏ đi lấy chồng để tôi độc hành trên đường nghệ thuật. Sau biến cố 1975,
tôi không còn dịp hợp tác với cô Hà Thanh như trước đây. Nhưng thỉnh
thoảng tôi được nghe cô hát một sáng tác mới của tôi ở hải ngoại, tôi
vẫn cảm thấy tiếng của cô vẫn đậm đà phong cách ngày xưa, vẫn một Hà
Thanh diễn cảm, sang trọng, sáng tạo trong khi hát, mặc dù thời gian
chia cách đã 40 năm qua.
07-27-2011 03:14 PM
Find all posts by this user Quote this message in a reply
Post Reply 


Forum Jump:


User(s) browsing this thread: 1 Guest(s)